Khi mới học tử vi, thì ta thường được giảng rằng: 1 cung trong tử vi, có
các cung xung chiếu, tam hợp, nhị hợp, lục hại, giáp ảnh hưởng đến nó.
Sau đó là sẽ nảy sinh những thắc mắc, sao này chiếu, sao kia chiếu, tự
nhiên chiếu chiếu 1 lúc loạn xì ngầu cả lên, thành 1 mớ hỗn độn. Không
thể định lượng được, thành ra không luận được gì nên hồn.
Nay mình viết bài này không với mục đích định lượng hay làm rõ hơn các quan hệ tương tác trên cho các bạn. Mình chỉ viết với ý: "thận trọng khi xét xung chiếu, tam hợp, nhị hợp..." trong tử vi.
Bởi vi trong 1 lá số tử vi, có rất nhiều sao, nó chỉ có tác dụng mạnh ở bản cung (cung mà nó được an) chứ ở các cung khác, tác động không đáng kể.
Có thể kể đến các nguyên nhân:
Nay mình viết bài này không với mục đích định lượng hay làm rõ hơn các quan hệ tương tác trên cho các bạn. Mình chỉ viết với ý: "thận trọng khi xét xung chiếu, tam hợp, nhị hợp..." trong tử vi.
Bởi vi trong 1 lá số tử vi, có rất nhiều sao, nó chỉ có tác dụng mạnh ở bản cung (cung mà nó được an) chứ ở các cung khác, tác động không đáng kể.
Có thể kể đến các nguyên nhân:
1. Sao được an theo vòng.
Khi sao được an theo vòng, thì trên mỗi vị trí đã có 1 sao tương ứng để thể hiện lý tính của vòng sao đó rồi. Ở các vị trí tam hợp, xung chiếu cũng đã có những sao riêng thể hiện lý tính của vòng rồi.
Việc ta cần làm, là soi xét xem sao ứng với vòng đó, ở vị trí tam hợp, xung chiếu như thế nào.
Ví dụ: sao thái tuế trong vòng thái tuế, giả sử thái tuế an tại Ngọ, thì trong tam hợp tại Dần có sao Bạch Hổ, tại Tuất có sao Quan Phù, xung chiếu tại Tý có sao Tuế phá. Các sao này đều thuộc vòng thái tuế.
Khi xét ảnh hưởng của vòng thái tuế tại Tý, thì đã có tuế phá rồi, mặc dù thái tuế xung chiếu, nhưng ta không cần quan tâm ảnh hưởng của thái tuế chiếu đến Tý như thế nào.
.
Trong tử vi có các sao sau được an theo vòng:
- Vòng thái tuế: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.
- Vòng Bác Sĩ: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỉ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
- Vòng Lộc Tồn: Lộc Tồn, Kình Dương, cách 1 cung, Lưu Niên Văn Tinh, cách 1 cung, Đường Phù, cách 2 cung, quốc ấn, cách 2 cung, Đà La.
- Vòng tướng tinh: Khởi từ vị trí sinh của tam hợp cục, chỉ có 4 sao Đào Hoa, Thiên Mã, Hoa Cái, Kiếp Sát. Các sao khác bị ẩn đi trong tử vi Việt,
- Vòng trường sinh: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
.
Các sao trên không nên xét xung chiếu, nên dùng sao tương ứng trong vòng ở vị trí xung chiếu. Và hết sức dè dặt khi xét tam hợp.
Ví dụ:
- Xung chiếu thiên mã không có nghĩa là động như thiên mã. Không nhìn thiên mã, mà hãy nhìn Đào Hoa.
1 người mệnh xung chiếu thiên mã, mà họ năng động, là do những sao nào đó ở mệnh, tài, quan của họ, chứ không phải do con Thiên Mã xung chiếu.
- Xung chiếu Lộc Tồn không có nghĩa là có lộc.
- Xung chiếu Thanh Long là bệnh phù. Nên dù có lưu hà ở đó cũng chẳng thể thành cách Thanh Long lưu hà.
v.v...
2. Các sao an theo Thiên Can, thể hiện khí, tính chất của Thiên Can trên địa bàn.
Thường các sao an Thiên Can, thể hiện tính chất của Thiên can khi tại các vị trí xác định.
Tức là khi thiên can đến vị trí đó, thì có tính chất đó, còn ở các vị trí khác, thì không có tính chất đó. Nên xung chiếu, tam hợp đều không có mấy ý nghĩa.
Ví dụ 1: Lộc Tồn, là vị trí Lâm Quan của Thiên Can, nên tam hợp Lộc Tồn còn ít ý nghĩa, xung chiếu lộc tồn không còn mấy ý nghĩa.
Ví dụ 2: Can Giáp, khi đi đến Sửu, Mùi thì được thiên khôi, thiên việt, thể hiện cái quý, cái tốt của thiên can ở 2 cung đó.
Còn các cung khác lại không có nhiều ý nghĩa như vậy nữa.
Các sao an theo Thiên Can bao gồm:
- Vòng Bác sĩ, vòng lộc tồn: đã nói ở trên.
- Thiên khôi, thiên việt.
- Thiên Quan, Thiên Phúc.
- Lưu Hà, Thiên Trù
Riêng Tứ Hóa không thuộc nhóm này.
Thường các sao an Thiên Can, thể hiện tính chất của Thiên can khi tại các vị trí xác định.
Tức là khi thiên can đến vị trí đó, thì có tính chất đó, còn ở các vị trí khác, thì không có tính chất đó. Nên xung chiếu, tam hợp đều không có mấy ý nghĩa.
Ví dụ 1: Lộc Tồn, là vị trí Lâm Quan của Thiên Can, nên tam hợp Lộc Tồn còn ít ý nghĩa, xung chiếu lộc tồn không còn mấy ý nghĩa.
Ví dụ 2: Can Giáp, khi đi đến Sửu, Mùi thì được thiên khôi, thiên việt, thể hiện cái quý, cái tốt của thiên can ở 2 cung đó.
Còn các cung khác lại không có nhiều ý nghĩa như vậy nữa.
Các sao an theo Thiên Can bao gồm:
- Vòng Bác sĩ, vòng lộc tồn: đã nói ở trên.
- Thiên khôi, thiên việt.
- Thiên Quan, Thiên Phúc.
- Lưu Hà, Thiên Trù
Riêng Tứ Hóa không thuộc nhóm này.
3. Lưu ý:
Những điểm nói ở trên, là để xét 1 cung bất kì. Và xét tại bản cung.
Tức là ta xét cung đó, và các sao hội về có vai trò như thế nào tại cung đó.
Ví dụ: mệnh hội lộc tồn, thiên khôi thiên việt, thiên mã. Thì mệnh có những tính chất nào.
Còn các sao kia, vẫn có vai trò tại cung mà nó đóng.
Ví dụ: mệnh xung chiếu thiên mã, không có tính chất của thiên mã. Nhưng cung Di chứa Thiên Mã, cung Di vẫn có tính chất của Thiên Mã.
Khi các bạn đã để ý những điểm này. Thì thấy lá số sẽ rõ ràng hơn rất nhiều. Không còn cảnh cứ đổ hổ lốn 1 đống sao vào 1 cung, căn ke bao nhiêu % tác dụng của tam hợp, bao nhiêu % tác dụng của xung chiếu nữa.
Những điểm nói ở trên, là để xét 1 cung bất kì. Và xét tại bản cung.
Tức là ta xét cung đó, và các sao hội về có vai trò như thế nào tại cung đó.
Ví dụ: mệnh hội lộc tồn, thiên khôi thiên việt, thiên mã. Thì mệnh có những tính chất nào.
Còn các sao kia, vẫn có vai trò tại cung mà nó đóng.
Ví dụ: mệnh xung chiếu thiên mã, không có tính chất của thiên mã. Nhưng cung Di chứa Thiên Mã, cung Di vẫn có tính chất của Thiên Mã.
Khi các bạn đã để ý những điểm này. Thì thấy lá số sẽ rõ ràng hơn rất nhiều. Không còn cảnh cứ đổ hổ lốn 1 đống sao vào 1 cung, căn ke bao nhiêu % tác dụng của tam hợp, bao nhiêu % tác dụng của xung chiếu nữa.